8 năm sau, tôi lại có một cuốn tiểu thuyết bị bỏ dở nữa. Một cuốn tiểu thuyết được tôi xếp vào thể loại tâm lý hoang tưởng bởi những hư cấu kỳ dị trong đó. Tôi dự định chia làm hai phần, phần một gồm những chương đưa ra những uẩn khúc, phần hai là phần đưa những uẩn khúc đó ra ánh sáng. Tôi đã viết xong phần 1 gồm 9 chương, nhưng cuối cùng cũng đành bỏ dở để dành thời gian xem Euro. Đến lúc kết thúc Euro với thất bại tơi bời dành cho Hà Lan của tôi, thì tôi cũng chẳng còn hứng mà viết tiếp nữa.
5 năm sau nữa, lần đầu tiên tôi, trong một cơn tỉnh ngủ, và tự dưng thèm đọc Kinh Thánh, nhìn nhận lại nghiêm túc cái sự viết của mình. Điểm mạnh của tôi không phải là khả năng thao túng ngôn từ, tôi không thể bắt chúng vặn vẹo uốn mình để tạo thành văn phong mượt mà như nhung mà tôi muốn. Tôi cũng không giỏi ở khoản cài cắm triết học rối rắm hay có thể làm mê đắm lòng người bằng những chủ đề hợp với thị hiếu đám đông. Điểm mạnh duy nhất của tôi là trí tưởng tượng bát nháo phi logic.
Những cuốn tiểu thuyết của tôi kia, nếu hoàn thành, có lẽ cũng sẽ ngây ngô như những bài hát tôi đã viết những năm quanh 18 tuổi. Tôi còn thiếu quá nhiều trải nghiệm. Và còn thiếu sự ích kỷ tuyệt đối. Khác với thơ, khi viết tiểu thuyết, tôi quá quan tâm tới việc làm sao để nhiều người có thể hiểu và thích nó. Có lẽ, chính điều này đã bao lần giết chết những mầm sáng tạo của tôi.
Viết, cũng như đọc, là một công việc ích kỷ. Nếu tôi không đạt được ích kỷ tuyệt đối, tôi sẽ không có tự do tuyệt đối, và do đó, sẽ chẳng có ngôn từ nào được sản xuất ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét